1. Mở đầu
Vấn đề con người được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm trong triết lý phát triển của mình. Theo Người, tất cả mọi sự phát triển đều vì con người, do con người và thuộc về con người. Lôgíc phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh đều xoay quanh việc tìm một chân giá trị về các vấn đề: dân – dân chủ – dân vận – dân tộc – đại đoàn kết dân tộc [1, tr.195 – 224]. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng có sự thống nhất biện chứng giữa tình cảm giai cấp công nhân – tình cảm dân tộc – tình cảm thế giới và nhân loại. Suốt đời Người nâng niu những giá trị về con người. Nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt trên mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Từ “Bản án chế độ thực dân Pháp” đến “Tuyên ngôn độc lập” và từ “Tuyên ngôn độc lập” tới “Di chúc”, ở đâu Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định trước hết là vấn đề con người. Giáo sư Trần Văn Giàu đã khẳng định: “Tầm cỡ một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải đáp mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới ấy là thực tại hay ảo ảnh, là khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều hay sáng tạo mới lạ, mà chung quy ở mức độ quan tâm đến con người, con người thật đang sống trên trái đất này và chắc còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy tư và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó; vì thế mà cụ vĩ đại” [6, tr.361].
Nhân loại đang bước vào kỷ nguyên văn minh trí tuệ, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghiệp 4.0, khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão và trở thành lực lượng sản xuất chính của nhiều quốc gia. Với Việt Nam, thành quả của sự nghiệp đổi mới đất nước gần 40 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng minh chứng tính đúng đắn, sáng suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới thực chất là trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh. Để xây dựng con người XHCN theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước kia, hay hiện nay chúng ta gọi là nguồn nhân lực chất lượng cao đòi hỏi một chiến lược toàn diện, kết hợp giữa giáo dục và đào tạo, phát triển phẩm chất đạo đức và trách nhiệm, khuyến khích đổi mới, sáng tạo, khởi nghiệp, xây dựng tinh thần đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường, bảo đảm chính sách phù hợp và nâng cao chất lượng cuộc sống. Điều này sẽ tạo ra những con người không chỉ giỏi chuyên môn mà còn có phẩm chất đạo đức tốt, ý thức trách nhiệm cao, sẵn sàng cống hiến vì sự phát triển của đất nước, đây chính là yếu tố tiên quyết đóng góp vào sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Khái niệm về con người được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân văn, và lý tưởng cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi con người là trung tâm của mọi hoạt động cách mạng và là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng và bảo vệ đất nước. Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa khá toàn diện về con người như sau: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” [8, tr.130].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt con người, mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng nhất định, trong đó mỗi người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định, trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với tự nhiên, mà con người là một bộ phận không tách rời. Người luôn xem xét và nhìn nhận con người là một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực, trí lực và các hoạt động đa dạng và luôn vươn tới Chân-Thiện-Mỹ. Nhưng đồng thời, Người cũng nhìn nhận con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện – ác, hay – dở, tốt và xấu, hiền và dữ,…bao gồm cả mặt xã hội và mặt sinh học.
Trên cơ sở tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người có thể khái quát thành những nội dung sau: Một là, con người là chủ thể sáng tạo: Người nhấn mạnh vai trò của con người là chủ thể của lịch sử, có khả năng tự quyết định, sáng tạo và phát triển. Người tin tưởng rằng con người có thể cải tạo và thay đổi hoàn cảnh, tự hoàn thiện mình để xây dựng xã hội tốt đẹp hơn. Hai là, con người là một phần của cộng đồng, của dân tộc, ở đó, mỗi cá nhân không tồn tại riêng rẽ mà luôn gắn bó với cộng đồng, dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng con người phải có tinh thần đoàn kết, tương trợ và hợp tác vì lợi ích chung của tập thể, dân tộc và nhân loại. Ba là, trong tư tưởng phát triển con người toàn diện, Hồ Chí Minh đề cao việc phát triển con người về cả trí tuệ, đạo đức, và thể lực. Người cho rằng giáo dục là công cụ thiết yếu để nâng cao nhận thức, phát triển khả năng sáng tạo và rèn luyện nhân cách của con người. Bốn là, con người có tinh thần nhân ái và nhân đạo, Người luôn kêu gọi con người sống vì người khác, quan tâm đến hạnh phúc của mọi người, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội. Đây là tư tưởng mang tính nhân đạo sâu sắc, nhấn mạnh lòng yêu thương và chia sẻ. Năm là, con người vì lý tưởng cách mạng, sống vì độc lập của dân tộc và tư do, hạnh phúc của nhân dân. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ sống cho bản thân mà còn sống vì lý tưởng cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi mỗi người dân Việt Nam tham gia vào công cuộc giải phóng dân tộc, đấu tranh cho hòa bình và độc lập của đất nước, với tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, giải phóng con người một cách triệt để, bởi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người đã phản ánh rõ tầm quan trọng của con người trong sự phát triển xã hội. Trong tất cả các bước ngoặt đánh dấu sự phát triển của xã hội, nhân tố con người thường xuyên đứng ở vị trí đầu tiên, quyết định thành công. Vì vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh vấn đề chăm lo, bồi dưỡng con người là việc làm hết sức cần thiết của sự phát triển.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để xây dựng CNXH, cần phải có Đảng lãnh đạo, Đảng phải trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin và luôn giữ gìn đoàn kết, thống nhất. Người nhấn mạnh việc phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và y tế để nâng cao đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh cũng đề cao tinh thần lao động sáng tạo, tích cực, tiết kiệm và chống lãng phí, tham nhũng, đồng thời cần phải xây dựng một nền kinh tế tự chủ, mạnh mẽ, dựa trên công nghiệp và nông nghiệp hiện đại. Đi đôi với đó cần thực hiện công bằng xã hội, chăm lo cho các tầng lớp lao động và bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định CNXH không phải tự nhiên mà có mà phải do chính con người tạo nên. Đó chính là những con người XHXN.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người XHCN tập trung vào việc xây dựng những con người mới, có phẩm chất và tư tưởng phù hợp với lý tưởng XHCN. Con người XHCN phải có đạo đức cách mạng, trung thành với Tổ quốc, yêu nước, yêu dân. Họ cần có tinh thần lao động hăng say, sáng tạo, biết vượt qua khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến sự tự giác, ý thức trách nhiệm và tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau. Con người XHCN phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ, kiến thức để phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ phải sống và làm việc theo hiến pháp, pháp luật, tuân thủ kỷ luật, luôn giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người chính là trung tâm của tất cả mọi vấn đề, giải phóng con người là mục tiêu của mọi cuộc cách mạng, đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người chính là sứ mệnh của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, những khi Người phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo tất cả cũng đều là vì mục đích đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, nhân dân chính là cội nguồn của sức mạnh, sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Ðảng thì thành vô địch, bởi vậy việc xây dựng CNXH muốn thành công thì phải có nhân dân tham gia, vì đây là một công trình tập thể, phải do nhân dân xây dựng lấy, trách nhiệm của Đảng là phải làm sao phát huy được tối đa sức mạnh của nhân dân, phải đem tài dân, sức dân, của dân ra để làm lợi cho dân. Phải hiểu rằng, nếu nhân dân không thiết tha với lý tưởng CNXH, xã hội bình đẳng thì không bao giờ có CNXH được.
Con người XHCN theo Hồ Chí Minh là những người “Có ý thức làm chủ Nhà nước, tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa và tư tưởng “mình vì mọi người, mọi người vì mình”” [11, tr. 66]. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đề cao và thực hành đạo đức, vì vậy, theo Hồ Chí Minh “Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng” [12, tr.140].
Hồ Chí Minh khẳng định những con người XHCN cần có ý thức giác ngộ XHCN cao, một lòng một dạ phấn đấu cho CNXH. Theo Người giác ngộ XHCN “không phải là cái gì cao xa mà cụ thể là ý thức lao động tập thể, ý thức kỷ luật, tinh thần thi đua yêu nước,…tinh thần đoàn kết tương trợ, tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó, ý thức cần kiệm” [10, tr359]. Con người XHCN còn phải là những con người có học thức, trí tuệ, có sự hiểu biết về tự nhiên, xã hội, tư duy, là người nắm được sự vận động của thời cuộc chứ không thể xây dựng CNXH chỉ bằng tinh thần nhiệt tình cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức” [11, tr.90]. Theo Người, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ thì các lợi thế truyền thống trong sự phát triển của một quốc gia như vị trí địa lý, đất đai, tài nguyên thiên nhiên,…sẽ không bền vững mà chỉ có nguồn lực con người, trí tuệ của con người mới là nguồn tài nguyên vô tận nếu chúng ta biết phát huy, giải phóng tối đa. Trong thời đại mới, sẽ chính là đội ngũ công nhân có trí tuệ, có tay nghề cao và sự hiểu biết, muốn vậy con người phải không ngừng học tập, trau dồi, làm giàu vốn kiến thức của bản thân, bởi nếu “Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau” [11, tr. 273], do đó ai cũng “đều phải cố gắng học tập văn hóa, học tập khoa học và kỹ thuật” [10, tr.420].
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến chính sách nhân tài, đất nước cần phải kiến thiết, kiến thiết lại cần phải có nhân tài, nhân tài đó phải được phát hiện. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam rất nhiều người tài, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước là phải phát hiện, trọng dụng, phát huy sức mạnh của nhân tài, phải làm sao để nhân tài ra sức giúp đỡ, cống hiến cho sự phát triển của đất nước. Người cũng tin tưởng và kỳ vọng vào thế hệ trẻ Việt Nam, những con người mới XHCN sẽ không ngừng nỗ lực học tập, trau dồi kiến thức để một ngày đưa dân tộc Việt Nam vinh quang, vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu. Năm 1958, trong bài Nói chuyện tại Đại hội sinh viên lần thứ 2, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu thanh niên Việt Nam đã yêu tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội,.. thì phải yêu khoa học “Bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học (…) Thời đại của chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển rất mạnh” [9, tr. 401], Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn sẽ đưa loài người đến hạnh phúc vô tận” [9, tr. 354].
Con người XHCN theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người hội tụ đủ cả đức và tài, cả hồng và chuyên. Đây là những nền tảng quan trọng để xây dựng con người, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hướng tới xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, và văn minh, đáp ứng được những yêu cầu của kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
4. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong kỷ nguyên mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” [3, tr. 203- 204]. Đồng thời, phải “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)” [3, tr.232- 233]. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn thông qua tăng cường chính sách đặt hàng đào tạo và thực hiện hỗ trợ tài chính của Nhà nước đối với cơ sở đào tạo và người học”, “Phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [5].
Nguồn nhân lực chất lượng cao là “những người lao động có trình độ ứng với một ngành nghề cụ thể. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường, đó là: có kiến thức chuyên môn, có kỹ năng, có thái độ, tác phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc [2], “có sức khỏe thể chất, tinh thần tốt; có trình độ tay nghề cao, khả năng lao động giỏi và kỹ năng chuyên môn tốt trong nghề; có những phẩm chất xã hội tốt đẹp, như tinh thần nhân văn, tập thể, hòa nhập, thích nghi làm việc trong môi trường đa văn hóa…” [13]Như vậy, tiêu chí của nguồn nhân lực chất lượng cao chính là những quan điểm của Hồ Chí Minh về tính chất, biểu hiện của con người XHCN, với sứ mệnh và trách nhiệm xây dựng lại một đất nước Việt Nam đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê về tình hình nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay thì dân số trung bình năm 2023 của cả nước ước tính 100,3 triệu người. Trong đó, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2023 đạt 52,4 triệu người, tăng 666,5 nghìn người so với năm trước. Lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người, chiếm 37,3%, khu vực nông thôn là 32,9 triệu người, chiếm 62,7%; lực lượng lao động nữ đạt 24,5 triệu người, chiếm 46,7%, lực lượng lao động nam đạt 27,9 triệu người, chiếm 53,3%. Như vậy, cán cân nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn đang nghiêng về dân số trẻ, đây là thời cơ vàng cho sự phát triển. Tuy nhiên, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước tính chỉ là 14,1 triệu người, chiếm 27,0%, cả nước vẫn còn hơn 38,0 triệu lao động chưa qua đào tạo [14]. Con số này cho thấy thách thức không nhỏ trong việc nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Do đó, việc xây dựng các chính sách và chương trình đào tạo cụ thể nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước là yêu cầu rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người XHCN, đồng thời xuất phát từ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay, có thể đề xuất một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, đổi mới công tác giáo dục và đào tạo, khuyến khích tinh thần học tập suốt đời theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng và Nhà nước cần tăng cường và tạo điều kiện cho người dân học tập không ngừng, cập nhật kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của thời đại. Đi đôi với giáo dục tri thức thì đồng thời phải đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức, nhấn mạnh các giá trị như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, tinh thần tự lực, tự cường và tinh thần trách nhiệm.
Xây dựng chương trình giáo dục hiện đại, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế số, trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghiệp 4.0. Tăng cường giáo dục STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) để phát triển tư duy sáng tạo và khả năng giải quyết vấn đề. Đẩy mạnh đào tạo giáo dục nghề nghiệp, gắn kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp. Phát triển các chương trình đào tạo theo mô hình học nghề kép, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Để có nguồn nhân lực chất lượng cao phải có đội ngũ giáo viên, giảng viên chất lượng cao, vì vậy phải không ngừng nâng cao trình độ của giảng viên. Khuyến khích giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học và học tập ở nước ngoài.
Hai là, xây dựng phẩm chất đạo đức, ý chí tự lực, tự cường và trách nhiệm xã hội. Tăng cường giáo dục đạo đức, đặc biệt là những giá trị của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, giúp người học hiểu và áp dụng những giá trị đạo đức mà Người đề cao, từ đó tạo ra những công dân có ý thức cao về vai trò và trách nhiệm của mình đối với xã hội. Tăng cường đào tạo các kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, quản lý thời gian, và khả năng tự học. Những kỹ năng này là cần thiết để làm việc hiệu quả trong môi trường hiện đại.
Ba là, thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo và khởi nghiệp. Đảng và Nhà nước tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích sáng tạo trong mọi lĩnh vực, từ nghiên cứu khoa học, công nghệ đến quản lý và sản xuất. Hỗ trợ và thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, giúp các cá nhân và doanh nghiệp trẻ phát triển ý tưởng kinh doanh mới, đóng góp vào sự phát triển kinh tế đất nước. Cung cấp vốn, tư vấn và đào tạo cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Tạo môi trường thuận lợi để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong giới trẻ. Tạo điều kiện thuận lợi cho nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo, đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ hiện đại. Khuyến khích sinh viên và các nhà nghiên cứu tham gia các dự án nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới.
Bốn là, tăng cường xây dựng tinh thần đoàn kết và mở rộng hợp tác trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Xây dựng tinh thần đoàn kết, hợp tác giữa các thành viên trong cộng đồng, giữa các doanh nghiệp và tổ chức. Tạo ra môi trường làm việc hài hòa, tôn trọng lẫn nhau. Mở rộng hợp tác quốc tế, học hỏi và tiếp thu những tiến bộ khoa học, kỹ thuật từ các nước phát triển, đồng thời giữ vững bản sắc dân tộc. Tăng cường hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu và doanh nghiệp quốc tế. Khuyến khích trao đổi học tập và nghiên cứu giữa các nước, tạo cơ hội học hỏi và tiếp thu kiến thức tiên tiến. Xây dựng chương trình đào tạo phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, giúp sinh viên có khả năng làm việc và cạnh tranh trên thị trường lao động toàn cầu.
Năm là, đảm bảo cơ chế, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, đánh giá đúng tiềm năng, năng lực của nguồn nhân lực. Đảm bảo chính sách đãi ngộ, tiền lương và phúc lợi xứng đáng cho người lao động, tạo động lực làm việc và cống hiến. Xây dựng và thực thi pháp luật công bằng, tạo môi trường làm việc minh bạch, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, thu hút và trọng dụng nhân tài. Không ngừng cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động. Tăng cường đầu tư vào hệ thống y tế, đảm bảo sức khỏe cho người dân, giúp họ có thể làm việc và cống hiến hết mình. Khuyến khích người lao động tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao để nâng cao đời sống tinh thần, tạo điều kiện phát triển toàn diện con người.
5. Kết luận
Đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với những cơ sở khoa học và thực tiễn vững chãi, bởi “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…” [4]. Vì vậy, chúng ta càng phải nhất quyết thực hiện thành công Kỷ nguyên mới đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu [7]. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh để chúng ta vũng vàng niềm tin xây dựng CNXH trên nền tảng nguồn nhân lực chất lượng cao với những con người XHCN sẽ đem lại thành công rực rỡ cho Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Hoàng Chí Bảo (2005):Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Lê Tiến Dũng: Nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay và những vấn đề đặt ra, Tạp chí Công thương điện tử, https://tapchicongthuong.vn/nguon-nhan-luc-chat-luong-cao-o-viet-nam-hien-nay-va-nhung-van-de-dat-ra-122398.htm
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tập 1, tr.203-204
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Khát vọng hùng cường và hiện thực hóa ở Việt Nam – https://daihoi13.dangcongsan.vn/multimedia/bai-5-khat-vong-hung-cuong-va-hien-thuc-hoa-o-viet-nam-6720.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022): Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-29-nqtw-ngay-17112022-hoi-nghi-lan-thu-sau-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-day-manh-cong-9018).
6. Trần Văn Giàu (2010): Hồ Chí Minh vĩ đại một con người, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
7. Tô Lâm (2024): Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Tạp chí Cộng sản, ngày 01/11/2024.
8. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 14, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
13. Trần Văn Phòng, TS. Lê Thị Hạnh (2018): Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, Tạp chí Cộng sản điện tử,
14. Tổng Cục Thống kê (2024): Tình hình lao động của Việt Nam năm 2023, https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2024/01/tinh-hinh-thi-truong-lao-dong-viet-nam-nam-2023/.