1. Khái niệm phát triển bền vững
Theo quan điểm duy vật biện chứng, “phát triển là phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn” [6, tr.227]. Trong hiện thực khách quan, sự phát triển không diễn ra theo con đường bằng phẳng mà có sự quanh co, phức tạp và có thể có cả bước thụt lùi tương đối. Sự phát triển mang tính phổ biến, nghĩa là nó diễn ra ở tất cả các lĩnh vực – từ tự nhiên đến xã hội và tư duy, từ hiện thực khách quan đến những phạm trù, khái niệm phản ánh hiện thực khách quan ấy. “Trong xã hội, sự phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người” [6, tr. 227 – 228]. Xã hội loài người xuất hiện trên nền tảng tự nhiên. Từ bao đời nay, vì sự phát triển xã hội và nhằm thỏa mãn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình, con người đã không ngừng nghỉ trong việc chinh phục, cải tạo, khai thác tự nhiên. Tuy nhiên, của cải trong tự nhiên không phải là vô tận; nếu con người cứ nhân danh “sự phát triển”, mãi khai thác theo kiểu bóc lột tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ mình một cách vô điều kiện thì đến một thời điểm nào đó, cái gọi là “sự phát triển xã hội” sẽ chuyển hóa thành mặt đối lập của nó – “sự hủy diệt xã hội”. Để tránh thảm họa hủy diệt có thể xảy ra trong tương lai, sự phát triển trong tư duy đã định hướng cho con người nhận thức lại rằng, đã đến lúc phải thay đổi quan điểm về phát triển: không thể phát triển bằng mọi giá, mà phải phát triển bền vững.
Sự xuất hiện khái niệm “phát triển bền vững” (sustainable development) là cả một quá trình, phản ánh cuộc đấu tranh giữa các nước giàu có, phát triển và các nước nghèo, chậm phát triển. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khái niệm phát triển chỉ thuần túy mang nội dung kinh tế. Chương trình xây dựng quốc gia, những chính sách phát triển kinh tế – xã hội của các nước chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất lương thực, hiện đại hóa nông nghiệp; tiến hành công nghiệp hóa, sản xuất thay thế nhập khẩu và phục vụ xuất khẩu… Khi đó, phát triển kinh tế đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, không có sự phân biệt, so sánh giữa số lượng và chất lượng. Đối với các nước nghèo, có nền kinh tế chậm phát triển thì nhu cầu chủ yếu là gia tăng sản xuất, xúc tiến các chương trình phục vụ quốc kế dân sinh.
Vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khái niệm “phát triển bền vững” lần đầu tiên được sử dụng trong Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo toàn thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình môi trường Liên hợp quốc đề xuất. Khái niệm này chính thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới từ năm 1987 sau khi nó được Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát triển do bà Gro Harlem Brundtland làm chủ tịch tiếp thu, khai triển trong Báo cáo phúc trình mang tựa đề “Tương lai chung của chúng ta” (thường được gọi là Báo cáo Brundtland). Theo Báo cáo Brundtland, phát triển bền vững là “sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai” [5, tr.59]. Theo cách tiếp cận này, khái niệm “phát triển bền vững” được hiểu theo nghĩa rộng, có thể triển khai với nhiều lĩnh vực một cách linh hoạt. Trên lĩnh vực kinh tế, đó là quá trình phát triển dựa vào nguồn tài nguyên có thể tái tạo, tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Trong lĩnh vực xã hội, phát triển bền vững hàm chứa sự phát triển con người, sự bình đẳng giữa các nước giàu và các nước nghèo, giữa các thế hệ; thậm chí cả sự cần thiết của việc giải trừ quân bị, giảm chi phí quốc phòng nhằm giải phóng nguồn tài chính phục vụ phát triển bền vững. Phát triển bền vững không chỉ là nỗ lực kết hợp giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, mà còn bao hàm cả các khía cạnh chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội; hướng tới thực hiện công bằng xã hội và tiến bộ xã hội.
Kể từ khi xuất hiện, khái niệm “phát triển bền vững” đã gây được sự chú ý và thu hút sự quan tâm của toàn nhân loại nói chung, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, đảng phái chính trị, các phong trào xã hội, chính phủ các quốc gia… nói riêng. Đối với từng quốc gia, việc soạn thảo, xây dựng các quan điểm, chính sách, chương trình và kế hoạch kinh tế – xã hội đều đi theo phương hướng và tinh thần của phát triển bền vững.
2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm phát triển bền vững trong giai đoạn hiện nay
Ở nước ta, khái niệm “phát triển bền vững” được biết đến, được triển khai nghiên cứu lý luận bởi các nhà khoa học vào khoảng cuối thập kỷ 80 – đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Cùng với các nước trên thế giới, phát triển bền vững đã trở thành nhu cầu/yêu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước Việt Nam theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, quan điểm phát triển bền vững của Đảng được nêu trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 – 2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [1, tr. 162]. Đây là lần đầu tiên trục tam giác tăng trưởng kinh tế – thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội – bảo vệ môi trường với tư cách là những thành tố có mối liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau tạo nên sự phát triển bền vững được Đảng ta đề cập một cách cụ thể, rõ ràng và trở thành một quan điểm phát triển chính thức của Đảng. “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [1, tr.163 -164].
Quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được Đảng ta đề cập, phát triển cụ thể hơn, sâu sắc hơn trên từng lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường trong văn kiện các kỳ đại hội sau. Trong văn kiện Đại hội XI, quan điểm phát triển bền vững đặt ra yêu cầu phát triển bền vững phải được biểu hiện cụ thể ở từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là trong lĩnh vực kinh tế; bởi lẽ, phát triển kinh tế là đầu tàu, động lực thúc đẩy phát triển các lĩnh vực khác. Kinh tế tăng trưởng, phát triển lại là điều kiện quan trọng để Nhà nước, xã hội chăm lo phát triển văn hóa, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và tăng cường mạnh mẽ công tác bảo vệ môi trường. “Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế… Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế – xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu” [2, tr.98 – 99].
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đề cập trực tiếp mục tiêu phát triển bền vững trong từng phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước: “Bảo đảm phát triển nhanh, bền vững trên cơ sở ổn định kinh tế vĩ mô và không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu; phát triển kinh tế tri thức, kinh tế xanh. Phát triển kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước” [3, tr.270].
Quan điểm, đường lối của Đảng về phát triển bền vững tiếp tục được quán triệt, thể hiện một cách nhất quán, xuyên suốt trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 được Đại hội XIII thông qua có chủ đề: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao” [4, tr. 206]; theo đó, phát triển nhanh và bền vững đât nước vừa là mục tiêu, yêu cầu, vừa là nhiệm vụ xuyên suốt trong triển khai thực hiện Chiến lược. Đánh giá về bối cảnh quốc tế hiện nay, Đại hội XIII nhận định: “Phát triển bền vững trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn. Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc có ảnh hưởng lớn đến phương thức tăng trưởng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trên thế giới. Chuyển dịch sang năng lượng tái tạo, năng lượng xanh sẽ là xu thế rõ nét hơn trong thời kỳ tới” [4, tr. 207-208].
Trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước, một trong các quan điểm chỉ đạo được Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” [4, tr. 110].
Một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 – 2030 là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” [4, tr.114].
Có thể khẳng định rằng, quan điểm phát triển bền vững đất nước là quan điểm nhất quán, toàn diện, xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhận thức về phát triển bền vững trong xã hội ngày càng được nâng cao, việc hiện thực hóa quan điểm phát triển bền vững đã và đang đi vào chiều sâu và thực chất hơn. Đó cũng là những tiền đề quan trọng để chúng ta tiếp tục thúc đẩy phát triển bền vững đất nước bằng những phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
3. Những giải pháp có tính định hướng thúc đẩy phát triển bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
3.1. Những giải pháp bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, gia tăng hàm lượng khoa học – công nghệ và sử dụng tiết kiệm nguồn tài nguyên nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững; “chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” [4, tr.120-121]. Việc đổi mới mô hình tăng trưởng đòi hỏi phải cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học và công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường… Điều đó cũng đồng nghĩa với phát triển mô hình tăng trưởng xanh, thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng bảo đảm phát triển bền vững, Việc cơ cấu lại nền kinh tế tập trung vào nâng cao hiệu quả đầu tư công, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thị trường tài chính – tiền tệ đáp ứng yêu cầu huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất đai, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao. “Cơ cấu lại các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các lĩnh vực, các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế, nhiều hàm lượng công nghệ có sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng tập trung vào những lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; lành mạnh hoá tài chính, nâng cao trình độ công nghệ, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước” [4, tr.121-122]. Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng phát triển lành mạnh các loại thị trường, cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp… phải luôn bám sát và đáp ứng các yêu cầu, tiêu chí phát triển bền vững.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh trên cơ sở “công nghiệp hóa sạch”. Yêu cầu đặt ra là: “Nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang công nghệ số, tập trung phát triển những ngành công nghiệp nền tảng, nhất là công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường”[4, tr.123]. Điều đó có nghĩa, ngay từ ban đầu phải quy hoạch sự phát triển công nghiệp, xây dựng với cơ cấu ngành nghề, thiết bị, công nghệ bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm công nghiệp, xây dựng; sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên không tái tạo được; giảm thiểu việc thải vào môi trường các chất độc hại và khó phân hủy nhằm bảo đảm phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế.
Thứ tư, phát triển nông – lâm – ngư nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững gắn với giải quyết tốt vấn đề nông dân, nông thôn; trong đó: nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững và phát huy lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; phát triển lâm nghiệp toàn diện, bền vững, trong đó: “Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương. Gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị” [4, tr.124]. Trong khi phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa phải đặc biệt coi trọng vấn đề chất lượng hàng hóa, bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; bảo tồn và phát triển được các nguồn tài nguyên đất, nước, không khí và đa dạng sinh học; giữ gìn, bảo vệ sinh thái, môi trường tự nhiên ở nông thôn trong điều kiện phát triển công nghiệp, dịch vụ, làng nghề, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp trong điều kiện xây dựng nông thôn mới; xây dựng các cộng đồng địa phương phát triển bền vững.
Thứ năm, tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo. Tổ chức tốt việc xây dựng và quản lý thống nhất quy hoạch không gian biển quốc gia, hoàn thiện cơ chế quản lý tổng hợp và chuyên ngành về biển, đảo. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật trên biển, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển và nâng cao hiệu quả các ngành kinh tế biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp và các đô thị ven biển. Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực cho kinh tế biển, nhất là nhân lực chất lượng cao. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ, điều tra tài nguyên, môi trường biển; xây dựng cơ sở dữ liệu số về biển, đảo, nâng cao năng lực giám sát môi trường biển, dự báo thiên tai, biến đổi khí hậu vùng biển, ven biển [4, tr.125-126].
3.2. Những giải pháp bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực xã hội
Phát triển bền vững trong lĩnh vực xã hội có nghĩa là cần phải tạo dựng được một xã hội yên bình, con người được sống trong môi trường xã hội hài hòa, công bằng, dân chủ, văn minh, có an sinh và hạnh phúc.
Thứ nhất, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển mạnh khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo động lực then chốt cho quá trình phát triển nhanh và bền vững đất nước theo tinh thần: “Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Tiếp tục đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức, phương pháp giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập quốc tế, phát triển con người toàn diện, đáp ứng những yêu cầu mới của phát triển kinh tế – xã hội, khoa học và công nghệ, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” [4, tr.136]. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Cùng với việc phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ phát triển nhanh và bền vững, Đảng ta cũng nhấn mạnh yêu cầu phát triển mạnh khoa học và công nghệ để khoa học và công nghệ thực sự là “động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế” [4, tr.140]; qua đó, thúc đẩy quá trình phát triển nhanh và bền vững. Phát triển mạnh khoa học, công nghệ góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức; góp phần tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
Thứ hai, xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, chăm lo phát triển văn hóa một cách toàn diện, đồng bộ trên các lĩnh vực văn hóa, bao gồm xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; gắn kết chặt chẽ, hài hoà giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại; thực hiện các chuẩn mực văn hoá gia đình Việt Nam ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh; phát triển hệ thống thông tin đại chúng, văn học, nghệ thuật; phát huy sức mạnh mềm của văn hoá Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu mới của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới. “Gắn phát triển văn hoá với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hoá cho các thế hệ mai sau” [4, tr.143-144]. Phát triển bền vững về văn hóa, đòi hỏi phải vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế.
Thứ ba, quản lý phát triển xã hội bền vững, thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội. Đại hội XIII của Đảng đề ra giải pháp: “Tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, tính bền vững trong các chính sách xã hội, nhất là phúc lợi xã hội, an ninh xã hội, an ninh con người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các mục tiêu kinh tế, tiến bộ, công bằng xã hội và môi trường, trên cơ sở đó, đổi mới phân bổ nguồn lực hợp lý để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội. Xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hoà” [4,147-148]. Đối với giải pháp này cần tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm, chính sách tiền lương, từng bước cải thiện, nâng cao thu nhập cho người lao động; huy động các nguồn lực để tập trung thúc đẩy công tác xóa đói, giảm nghèo đa chiều, bền vững, bảo đảm mức sống tối thiểu và các dịch vụ cơ bản; hoàn thiện các chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và trợ giúp xã hội với sự ưu tiên dành cho nhóm các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. Chú trọng nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, cố gắng bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm…
Đảng, Nhà nước cần chú trọng nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện có hiệu quả chính sách dân số và phát triển; tận dụng và phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng, đồng thời chuẩn bị điều kiện thích ứng với già hoá dân số; bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em nhằm giảm thiểu áp lực dân số và gia tăng chất lượng dân số. Nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện hiệu quả các chính sách về dinh dưỡng, an toàn thực phẩm, bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ và tầm vóc người Việt Nam, bảo đảm toàn dân đều được quản lý, bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ. Nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội, bảo đảm an toàn giao thông, an toàn thực phẩm và thuốc chữa bệnh…
3.3. Những giải pháp bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững trong lĩnh vực tài nguyên – môi trường
Yêu cầu bảo đảm phát triển bền vững chính thức xuất hiện từ “tiếng chuông” cảnh báo về việc con người khai thác ngày càng cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và gây ra vấn nạn ô nhiễm môi trường. Phát triển bền vững trong lĩnh vực tài nguyên – môi trường đòi hỏi phải bảo vệ khả năng tái sinh của hệ sinh thái, giữ cho nhịp độ sử dụng tài nguyên có khả năng tái sinh thấp hơn tốc độ tái sinh; việc sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải tùy thuộc vào khả năng sáng chế tư liệu thay thế; mức độ ô nhiễm môi trường phải thấp hơn khả năng tự tái tạo của môi trường tự nhiên.
Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của toàn xã hội, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân về khai thác, sử dụng tài nguyên đất đai, tài nguyên nước, bảo vệ môi trường. Đối với tài nguyên đất đai, phải “bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, bền vững, hiệu quả, tiết kiệm trong sử dụng đất” [4, tr.152]. Đối với tài nguyên nước, phải “khai thác, sử dụng tài nguyên nước bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt” [4, tr.153].
Về phía Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa, xử lý nghiêm các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng và tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi, xử lý nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường. “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nghiên cứu cơ bản và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về tài nguyên, môi trường, phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu” [4, tr.155].
Thứ hai, tăng cường lồng ghép các nội dung về bảo vệ môi trường vào quá trình xây dựng, soạn thảo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực, vùng và các chương trình, dự án đầu tư; coi đó là một yêu cầu có tính bắt buộc thực hiện một cách nghiêm ngặt nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững. Đối với các chương trình, dự án đầu tư đã triển khai thực hiện trước đây chưa coi trọng bảo vệ môi trường thì phải khắc phục thiếu sót đó. Các dự án, công trình đầu tư xây dựng mới bắt buộc phải thực hiện nghiêm các quy định bảo vệ môi trường. Trong giai đoạn tới cần tập trung chống suy thoái, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước; bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển; bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp; quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại; bảo tồn đa dạng sinh học; giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu góp phần phòng, chống thiên tai. “Cải thiện chất lượng môi trường và điều kiện sống của nhân dân. Tập trung xử lý chất thải, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục. Huy động, ưu tiên các nguồn lực, thực hiện đồng bộ các giải pháp công trình và phi công trình để bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu” [4, tr.154].
Thứ ba, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững nguồn tài nguyên khoáng sản; hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên khoáng sản chưa qua chế biến. Quản lý, khai thác hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch.
4. Kết luận
Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không gây phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc bảo đảm phát triển bền vững đất nước, thể hiện trong văn kiện các kỳ đại hội của Đảng, đặc biệt là văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Từ quan điểm về phát triển bền vững, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những giải pháp có tính định hướng nhằm bảo đảm thúc đẩy phát triển bền vững đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và tài nguyên – môi trường. Để triển khai thực hiện thành công các giải pháp đó, cũng có nghĩa là đưa đất nước thực sự phát triển bền vững, đòi hỏi sự nỗ lực, quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành cũng như đông đảo các tầng lớp nhân dân./.
TS. Ngọ Văn Nhân