Hàn Phi vốn là công tử nước Hàn nhưng không được vua Hàn trọng dụng. Ông đã nhiều lần viết thư dâng lên vua Hàn, nhưng vua Hàn đều không dùng. Đến khi Tần Thủy Hoàng đánh nước Hàn, vua Hàn mới sai Hàn Phi đi sứ sang Tần. Sang Tần, Hàn Phi viết thiên Tồn Hàn nhằm thuyết phục vua Tần không đánh nước Hàn. Tần Thủy Hoàng trước đó đã đọc các thiên Cô phẫn, Ngũ đố của Hàn Phi, vốn rất mong muốn được kết giao, nhưng Lý Tư và Diêu Giả gièm pha với Tần Thủy Hoàng rằng Hàn Phi chỉ có ý lo cho nước Hàn chứ không lo cho nước Tần, nếu để Hàn Phi đi thì sẽ để lại hậu họa, vì vậy tốt hơn hết là nên khép tội mà trừng trị ông. Vua Tần cho là phải, mới bắt giam Hàn Phi. Lý Tư lại sai người đưa thuốc độc vào để Hàn Phi tự sát. Khi Tần Thủy Hoàng hối hận, muốn thả Hàn Phi đi, thì ông đã chết rồi. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên đã hai lần tỏ ý tiếc nuối rằng, Hàn Phi là người hiểu rõ sự khó khăn của việc du thuyết, lại từng viết nên thiên Thuyết nan để nói về sự khó khăn ấy một cách rất đầy đủ, vậy mà vẫn không thoát được nạn ở nước Tần.
Hàn Phi được xem là người tập đại thành của Pháp gia ở Trung Quốc thời cổ đại. Ông kế thừa thuyết tính ác của Tuân Tử, lại tiếp thu quan niệm trọng pháp của Thương Ưởng, quan niệm trọng thuật của Thân Bất Hại và quan niệm trọng thế của Thận Đáo, để xây dựng nên tư tưởng pháp trị của mình. Ông cho rằng, bản tính con người vốn ham lợi, ghét hại, các mối quan hệ giữa người với người trong xã hội, bất kể là vua tôi, cha con, chồng vợ v.v., đều được tạo dựng trên cơ sở lợi ích, nên không thể cai trị đất nước bằng đức trị, mà cần phải dùng pháp trị. Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi là tư tưởng về việc trị nước dựa trên sự tổng hợp của pháp, thuật, thế, nghĩa là coi trọng việc xây dựng pháp luật (pháp), sử dụng thuật dùng người, xét việc để quản lý đội ngũ quan lại (thuật), đồng thời củng cố quyền thế cho người cai trị (thế).
Theo Hàn Phi, pháp cần phải dễ hiểu, công khai, công bằng, đồng thời có tính linh động, phù hợp với thời thế. Về thuật, Hàn Phi đưa ra rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm nhìn nhận, đánh giá, sai khiến bầy tôi, trong đó, một trong những nội dung quan trọng nhất là thuật hình danh, tức là biện pháp giao việc và xem xét hiệu quả công việc dựa trên sự đối chiếu giữa lời nói của bầy tôi (danh) và công việc mà họ làm được (hình). Còn thế là cái quyền thế mà người cai trị phải nắm chắc, bởi nó là chỗ dựa để thắng được đám đông, Hàn Phi chỉ ra rằng, một ông vua kém mà có thế thì vẫn có thể khiến dân chúng quy phục, còn thánh nhân không có thế, thì vẫn chỉ là bầy tôi. Pháp, thuật, thế đều là những công cụ không thể thiếu được trong việc trị nước, vì vậy, người cai trị cần phải có cả ba. Quan niệm này đã khắc phục sự thiếu hụt trong học thuyết của các nhà tư tưởng thuộc Pháp gia trước Hàn Phi, khi họ mới chỉ coi trọng từng công cụ trên một cách riêng rẽ. Chính ở đây, Hàn Phi đã vượt lên trên họ để đưa tư tưởng pháp trị thời Tiên Tần lên đến đỉnh cao.
Hàn Phi luôn nhấn mạnh vào tính hiệu quả thực tế của đường lối pháp trị trong sự đối sánh với đường lối đức trị. Ông cho rằng, người trị nước không chờ đợi người dân yêu mình, mà cần khiến cho người dân không thể làm điều sai trái. Nếu căn cứ vào bản tính hám lợi của số đông con người, thì không thể trông chờ vào việc giáo hóa để khiến cho người dân tự mình trở nên lương thiện, vì thế, Hàn Phi khẳng định người cai trị không lo về đức, mà phải lo về pháp luật. Hàn Phi xem việc cai trị bằng đạo đức cũng như đợi mũi tên tự nó thẳng, đợi cây gỗ tự nó tròn, đợi mũi tên tự nó thẳng thì một trăm đời cũng không có tên, đợi cây gỗ tự nó tròn thì một ngàn đời cũng không có bánh xe, cho nên ông đặc biệt đề cao sự can thiệp của người cai trị đối với quan lại và dân chúng, thông qua pháp, thuật, thế mà đưa họ vào quỹ đạo mà mình mong muốn. Nền chính trị lý tưởng của Hàn Phi là nền chính trị mà ở đó, người dân tuân theo pháp mà sinh hoạt, bề tôi chịu sự chế ước của thuật mà thi hành công việc của mình, như thế thì người cai trị không cần làm gì mà mọi việc vẫn được vận hành, đó cũng chính là nền chính trị vô vi. Hàn Phi tin rằng đường lối trị nước ấy là đường lối trị nước có tính khả thi, hiệu quả, bởi nếu tuân theo nó thì không cần đến thánh nhân, mà chỉ một ông vua ở mức độ trung bình cũng có thể cai trị được đất nước.
Tư tưởng của Hàn Phi thể hiện chủ trương xây dựng một nhà nước quân chủ tập quyền trong bối cảnh phân liệt ở Trung Quốc thời Chiến Quốc. Hàn Phi nhiều lần nhấn mạnh rằng người cai trị cần phải nắm chắc uy thế, quyền lực của mình mà không được chia sẻ cho bất cứ ai, còn bầy tôi thì tuyệt đối không được làm điều gì vượt quá chức phận. Trong tác phẩm của mình, ông còn khẳng định rằng, công việc ở bốn phương, mà điểm then chốt nằm ở trung ương, bậc thánh nhân nắm lấy cái then chốt mà bốn phương đến phục dịch. Đây có thể xem như sự biểu đạt rõ ràng nhất về chủ trương quân chủ tập quyền của Hàn Phi. Với chủ trương đó, dù sinh thời Hàn Phi không được trọng dụng, nhưng tư tưởng của ông vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong lịch sử Trung Quốc nói chung, trong sự phát triển của chế độ quân chủ ở Trung Quốc nói riêng.
Hàn Phi vốn có tật nói ngọng, không giỏi biện luận, nhưng lại giỏi viết sách. Sau khi ông qua đời, người đời sau tập hợp những tác phẩm do ông viết thành sách, gọi là Hàn Phi Tử, gồm 20 chương, 55 thiên, lưu truyền đến ngày nay.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Hàn Phi Tử, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994.
2. Tư Mã Thiên, Sử ký, Phan Ngọc dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2003.
3. Hàn Phi, Hàn Phi Tử, Phan Ngọc dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2005.
4. Phùng Hữu Lan, Lịch sử triết học Trung Quốc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.