ASoKA (A DỤC VƯƠNG)

Trần Nguyên Việt

Viện Triết học, Viện hàn lâm KHXH Niệt Nam

Asoka kế thừa ngôi vị của vua cha là Bindusary, trở thành vị vua thứ 3 của vương triều Maurya (âm Hán gọi là Khổng Tước), đồng thời là người thiết lập mô hình nhà nước lấy Phật giáo làm quốc giáo.

Thời mới trị vì, ông đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh tàn khốc nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa, nhân đó mở rộng biên giới của đế chế và củng cố quyền lực, vì vậy, ông còn được mệnh danh là “Chand Asoka” (Asoka bạo chúa). Tuy nhiên, phía sau những thắng lợi và quyền uy chính trị, bản thân Asoka đã nhận thấy ở đó những thảm họa chết chóc và hoang tàn. Đó là nguyên nhân cơ bản làm cho ông thức tỉnh để thay đổi biện pháp cai trị một cách nhân đạo và mềm dẻo hơn. Cũng từ đó, Asoka quy y Tam bảo, thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại theo tinh thần nhân đạo của đạo Phật và đạo Giaina.

Những nguyên tắc do Asoka đặt làm nền tảng cho hệ tư tưởng quốc gia, chính sách xã hội và cho toàn bộ hệ thống quản lý chủ yếu dựa vào Phật pháp. Dưới thời trị vì của Asoka, ở Maurya có tới 84.000 ngôi chùa được xây dựng, nhà nước cấp tiền cho tăng hộ, phái các cao tăng đi truyền bá đạo Phật khắp đất nước Ấn Độ và một số nước khác, góp phần đưa Phật giáo lên địa vị tôn giáo thế giới. Ông là người tập hợp xá lợi Phật (sarira) và xây dựng các tháp (stupa) cho mọi người có cơ hội chiêm bái tháp xá lợi Phật. Bản thân ông chiêm bái đảnh lễ tất cả các thánh tích của đức Thế Tôn và các đức Phật trong quá khứ. Theo Đại sư Ấn Thuận, ở vườn Lâm-tỳ-ni, nơi đức Phật đản sinh hay tại vườn Nai nơi Ngài chuyển bánh xe Pháp lần đầu tiên, v.v. đến nay vẫn còn dấu tích những trụ đá của vua Asoka để lại.

Cái mới trong nhận thức Phật giáo về “pháp” mà Asoka vận dụng trong mọi hoạt động của mình được thể hiện ở chỗ, ý nghĩa của “pháp” (tức luật pháp) không có sự phân biệt theo các đẳng cấp xã hội cũng như các giáo phái. Nghĩa là, mọi chuẩn mực và qui tắc hành vi của con người là thống nhất. Trách nhiệm thực thi pháp luật không của riêng nhóm người nào. Việc trị vì đất nước dựa vào “pháp” của ông thể hiện trong cương lĩnh thể hiện tính văn minh, được ghi trong pháp sắc trên cột đá lớn số I với tuyên bố rõ ràng rằng: “Đây là quy tắc trị nước dựa vào Pháp, đem lại hạnh phúc dựa vào Pháp và bảo vệ [đất nước] nhờ vào Pháp”. Cương lĩnh đó hoàn toàn khước từ sự sát hại và xâm hại đối với mọi sinh thể. Chính vì vậy, trong pháp sắc trên cột đá lớn số VII liên quan đến hai cách thức thực hiện quy tắc của “Pháp” ghi rằng: “Ban bố lệnh có hạn chế và theo tinh thần tâm phục”.

Như vậy, từ một ông vua “bạo chúa”, Asoka đã thức tỉnh, quy y Tam bảo và trở thành vị vua anh minh, trị vì đất nước dựa trên tính nhân đạo của Phật pháp để kiến tạo nên một quốc gia Maurya văn minh nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, đồng thời trở thành hình mẫu hoàng đế lý tưởng để các ông vua ở nhiều nước châu Á noi theo. Tuy nhiên, theo các tài liệu lịch sử Phật giáo Ấn Độ, vào cuối thời trị vì của Asoka, nhà nước Maurya suy yếu, ở các địa phương xẩy ra bạo loạn, chống đối. Sau khi ông mất, các hậu duệ của ông không đủ năng lực duy trì đế chế này, dẫn nó đến sự sụp đổ.

Tài liệu tham khảo

  1. Đại sư Ấn Thuận, Lịch sử tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Thích Quảng Đại biên dịch, Nxb. Dân trí, Hà Nội, 2020.
  2. Индийская философия энциклопедия. Изд. Фирма «Восточная литература» РАН, 2009.
  3. Философия буддизма энциклопедия. Изд. Фирма «Восточная литература» РАН, 2011.

Bài liên quan

Bài đăng mới